(Có dùng bài viết của Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia)
Vài tật khúc xạ
Hai tật khúc xạ Cận thị và Viễn
thị là phổ biến, là tật mắc phải khi còn nhỏ.
Người mắc tật cận thị
hay viễn thị từ nhỏ, tùy từng người theo sự phát triển của cơ thể (mắt) mà độ
cận hay viễn tăng dần. Đến khoảng 18-25 tuổi thì cơ thể ổn định, độ cận hay
viễn theo đó cũng ngừng tăng.
Riêng Lão thị lại là tật mắc phải khi về già, ai cũng bị ít nhiều kể cả người mắt rất tốt thời trẻ.
Cận thị
Cận thị là một tật khúc
xạ ở mắt. Người bị cận thị có thể nhìn bình thường đối với những mục tiêu ở cự
ly gần, nhưng không nhìn rõ đối với những mục tiêu ở cự ly xa. Nguyên nhân của cận thị là do giác mạc vồng quá hoặc do trục trước
- sau của cầu mắt dài quá khiến cho hình ảnh không hội tụ đúng võng mạc như mắt bình thường mà lại hội tụ ở
phía trước võng mạc.
Một thấu
kính lõm phù hợp có thể giúp điều chỉnh hình ảnh về đúng võng mạc.
Đối
với mắt bị cận thị, hình ảnh sẽ được hội tụ trước võng mạc thay vì hội tụ ở
võng mạc như mắt bình thường.
Viễn thị
Viễn thị là một tật liên quan
đến khúc xạ ở mắt. Người bị viễn thị có thể nhìn bình thường đối với những
mục tiêu ở cự ly xa, song không nhìn rõ những mục tiêu ở cự ly gần dù cố điều tiết. Nguyên nhân
của viễn thị là giác mạc dẹt quá hoặc trục trước - sau của cầu mắt ngắn quá khiến cho hình ảnh không hội
tụ ở đúng võng mạc như mắt bình thường mà lại hội tụ ở
phía sau võng mạc.
Một thấu kính lồi phù hợp có thể giúp
điều chỉnh điểm hội tụ về đúng võng mạc.
Viễn thị và việc khắc
phục bằng thấu kính lồi
Lão thị
Lão thị xem bên ngoài
như tật viễn thị, nghĩa là không nhìn rõ vật ở gần (nhưng thời trẻ nhìn bình
thường). Nguyên nhân là do thủy tinh thể kém đàn hồi, không co dày lên để hội
tụ đủ khiến cho hình ảnh
không hội tụ ở đúng võng mạc như mắt bình thường mà lại hội tụ ở
phía sau võng mạc.
Một thấu kính lồi phù hợp có thể giúp
điều chỉnh điểm hội tụ về đúng võng mạc.
Cấu tạo của mắt
Human Eye Section
View: Mặt cắt mắt người
Cornea: Giác mạc
Aqueous Humor: Thủy
dịch
Iris: Mống mắt
Ciliary Muscle: Cơ thể
mi _
Ciliary Fibers: Bó sợi
mi _ treo Thủy tinh thể
Crystaline Lens: Thủy
tinh thể
Vitreous Humor: Dịch
kính
Retina: Võng mạc
Fovea Centralis: Điểm
vàng
Blind Spot: Điểm mù
Optic Nerve: Dây thần
kinh thị giác
Sự khúc xạ ánh sáng
Mắt người bình thường là một hệ thống thấu kính có độ hội tụ tổng hợp, có thể xem như một thấu
kính lồi tiêu cự sau F = 20 mm (tùy người để ảnh rơi trên võng mạc khi nhìn xa),
công suất hội tụ +58 đi-ốp.
Khi người nhìn vật ở xa:
- Ánh sáng từ xa tới (quá 6 m) được xem là tia sáng
song song. Khi người bình thường nhìn vật càng xa, thủy tinh thể dãn tự do, ảnh
của vật hội tụ trên võng mạc.
- Người có tật cận thị được xác định, ảnh của
vật rơi trước võng mạc. Với tật cận thị, cơ thể không cách nào tự điều
chỉnh! Vì thế người cận thị cần đeo kính phân kỳ thích hợp. Riêng người
bình thường, mắt làm việc cự ly rất gần trong thời gian dài, có thể sau đó nhìn
xa không rõ. Đây là cận thị thoáng qua do thủy tinh thể phồng quá mức chưa trở
về bình thường = mỏi mắt; nghỉ ngơi (có thời gian cho thủy tinh thể dãn ra) mắt
sẽ nhìn xa rõ lại.
- Người viễn thị nhìn bình thường vật ở xa.
Khi người nhìn vật ở gần: dưới 6m, tia sáng biến thành tia phân kỳ, nếu thủy
tinh thể vẫn dẹt, các tia sáng sẽ hội tụ sau võng mạc, hình ảnh sẽ mờ. Lúc nầy thủy
tinh thể bắt đầu co lại tùy theo cự ly: Vật càng gần mắt, thủy tinh thể buộc
phải co càng nhiều để tăng thêm độ hội tụ cho mắt. Tăng thêm không quá +12
đi-ốp.
=> Vậy điều tiết
của mắt là (con ngươi thu nhỏ lại và) thủy tinh thể dày lên để tăng độ
hội tụ giúp mắt nhìn rõ vật ở gần.
Người bình thường, cận
thị hay viễn thị, mắt đều có khả năng điều tiết.
- Với người viễn thị (hay lão thị) không đeo kính:
điều tiết hết mức vẫn không nhìn rõ vật, buộc phải đeo kính hội tụ thích hợp.
- Với người cận thị không đeo kính: trong cự ly gần
nhất định, mắt chưa cần điều tiết vẫn thấy rõ do ảnh rơi đúng võng mạc. Sau cự
ly gần nhất định ấy, càng gần thêm, mắt mới cần điều tiết.
- Người cận thị đeo kính: mắt điều tiết thấy rõ vật
như người bình thường.
Tuổi già
kéo theo tật lão thị: thủy tinh thể co lại không nổi. Độ hội tụ thủy tinh thể (tăng thêm
tối đa từ 12 đi-ốp) giảm xuống tùy người. Giảm càng nhiều thì khả năng nhìn
gần càng kém. Cần đeo kính hội tụ thích hợp để bù độ giảm nầy.
- Người cận thị về già thêm lão thị, gọi là cận-lão
hay cận-viễn.
- Có dư luận cho rằng lúc trẻ bị cận thị, về già ít
hay không bị lão thị. Đây là lý luận hay quan sát không đúng. Như nói trên, tật
lão thị là do thủy tinh thể kém khả năng co lại khi nhìn gần, không liên quan
(bù trừ) gì với chuyện nhìn xa kém của cận thị. [Nếu cận thị rất nặng thời trẻ, cự ly không điều tiết chỉ còn vài mét thì khi về già ít bị lão thị, vì khả năng điều tiết có giảm vẫn đủ nhìn rõ vật cách vài tất]
- Người viễn thị khi về già do giảm khả năng điều
tiết, cần thay kính hội tụ tăng đi-ốp thích hợp.
Bàn luận thêm:
- Người ta cho rằng quá trình lão hóa cơ thể xảy ra
rất sớm; vì thế tật lão thị có thể xảy ra với mọi người từ lúc 8 tuổi. Chỉ vì
sự giảm khả năng điều tiết rất nhỏ nên ít được để ý.
- Bên cạnh việc giảm khả năng co lại, thủy tinh thể
cũng giảm khả năng dãn khiến việc nhìn xa giảm đi (tùy người). Tuy nhiên sự
giảm nầy quá bé nên ít được ghi nhận.
- Có người nói trẻ sơ sinh nhìn gần rõ, dần dần mới
phát triển nhìn xa. Trẻ sơ sinh cũng là con người nên các định luật vật lý trên
vẫn áp dụng. Nhận định “khá xa” như trên có thể do liên quan nhận thức của trẻ
sơ sinh: Đầu tiên chúng nhận ra mùi người mẹ, đến giọng nói rồi khuôn mặt mẹ;
chỉ sau đó chúng mới nhận ra thêm các sự vật hay người khác xa hơn…